“Vui mừng trong Niềm Hy vọng” cùng Mẹ Maria

giao-xu-cat-noi

Lòng sùng kính Đức Mẹ như một phương thuốc cho sự vô vọng của chủ nghĩa thế tục

Tác giả: Lm. Donncha Ó. hAodha

giao-xu-cat-noi

Một lối tắt đến niềm hy vọng

Đối với một linh mục, luôn là một điều phấn khởi khi một phụ nữ chia sẻ tin vui rằng cô ấy đang mong có em bé, và xin cầu nguyện cho cô và đứa con sắp chào đời trong Thánh lễ. Thiên chức làm mẹ luôn là một nguồn hy vọng. Một người mẹ đang mang thai là hiện thân của một niềm hy vọng sống động. Niềm vui của linh mục là mang sự sống mới này đến với suối nguồn hy vọng vô tận, là Đức Kitô hằng sống trong công trình cứu độ của Người, tức là Bí tích Thánh Thể.

Giáo hội chứa đựng trong mình phương thuốc giải cho căn bệnh lớn nhất của chủ nghĩa thế tục, đó là sự thiếu hy vọng trong tâm hồn con người. Theo định nghĩa, “chủ nghĩa thế tục” loại trừ bất kỳ niềm hy vọng nào vượt trên thế giới này (saeculum). Điều này, như thường thấy và đôi khi một cách bi thảm, là vô cùng không thỏa đáng và cuối cùng không bền vững đối với con người. May mắn thay, Giáo hội có một niềm hy vọng siêu vượt bởi vì, với tư cách là một người mẹ đích thực, Giáo hội nắm giữ trong mình và trao cho thế giới niềm hy vọng duy nhất “không làm cho phải thất vọng” (Rm 5,5).¹

Giáo hội tràn đầy hy vọng vì Giáo hội có Mẹ Maria, Đấng mang Đấng Cứu Độ đến cho chúng ta. Thật vậy, trong Tông sắc công bố Năm Thánh 2025, vốn tập trung vào niềm hy vọng, Đức Thánh Cha đã tuyên bố rằng “niềm hy vọng tìm thấy chứng nhân tối cao nơi Mẹ Thiên Chúa.”² Cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ là một lối vào hấp dẫn và gần gũi để đến với sự viên mãn của niềm hy vọng vì Mẹ là con đường ngắn nhất đến với Chúa Kitô, Đấng là “niềm hy vọng của chúng ta” (1 Tm 1,1). Theo nghĩa này, lòng sùng kính Đức Mẹ là một phương thuốc giải tuyệt vời cho sự tuyệt vọng vốn không thể tránh khỏi trong một thế giới quan thiếu vắng Thiên Chúa, và do đó thiếu ý nghĩa, mục đích hay viễn cảnh. Có nhiều lý do tại sao Đức Trinh Nữ là “Mẹ của Niềm Hy vọng”³ nhưng nền tảng của tất cả là Mẹ Maria mang trong mình và trao cho thế giới niềm hy vọng duy nhất mang lại ơn cứu độ.⁴

Phát triển một mối tương quan cá nhân với Mẹ Maria do đó là được đắm mình trong niềm hy vọng lớn lao của sự sống vĩnh cửu, vì Mẹ mang Chúa Giêsu vào thế gian. Vì lý do này, Giáo hội chào kính Mẹ Maria là “sao mai.” Mẹ là ngôi sao báo hiệu sự xuất hiện của mặt trời ban sự sống: Chúa Giêsu Kitô.⁵ Theo lời của Thánh John Henry Newman: “Đặc ân của Mẹ Maria là được làm Sao Mai, báo hiệu mặt trời. Mẹ không chiếu sáng cho chính mình, hay từ chính mình, nhưng Mẹ là sự phản chiếu của Đấng Cứu Chuộc của Mẹ và của chúng ta, và Mẹ tôn vinh Người. Khi Mẹ xuất hiện trong bóng tối, chúng ta biết rằng Người đang ở gần.”⁶

Một người Mẹ đến sớm

Tính cách của Mẹ Maria được đặc trưng bởi việc “đến sớm” vì lợi ích của con cái mình. Mẹ dẫn vào ơn cứu độ mà tất cả chúng ta đều khao khát sâu sắc. Nơi con người Mẹ, Mẹ cho thấy trước vẻ đẹp rạng ngời của nhân loại được cứu chuộc. Trong cuộc sống và hành động của mình, Mẹ thúc đẩy sứ mạng của Con mình và là người đầu tiên vui mừng trong ơn cứu độ mà Người mang lại. Giáo hội đã áp dụng một cách thích hợp cho Mẹ những lời của sách Diễm Ca 6,10: “Kìa bà nào đang tiến lên như rạng đông, đẹp như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời, uy hùng như đạo binh dàn trận?” “Tiền Tin Mừng” hay lời loan báo Tin Mừng đầu tiên theo ngay sau sự Sa ngã, và truyền thống của Giáo hội đã nhận ra ở đó sự hiện diện của Người Mẹ sẽ đạp nát đầu con rắn (x. St 3,15). Ngay lập tức, khi con cái cần Mẹ, Mẹ Maria đã ở đó. Mẹ Maria là Eva mới, như các Giáo phụ đã nhìn nhận,⁷ bởi vì qua sự đáp trả tự do của Mẹ đối với Thiên Chúa, nhân loại được “tái tạo” trong Chúa Kitô.⁸

Có lòng sùng kính Đức Mẹ là bước vào ánh sáng của Chúa Kitô, và do đó luôn có một lý do, lý do tối hậu, cho niềm hy vọng. Lòng sùng kính Sao Mai “khác một trời một vực” với sự vô vọng của chủ nghĩa thế tục. Có người đã từng nhận xét rằng những người sùng kính Đức Mẹ dường như tỏa ra một sự thanh thản tĩnh lặng.

Hiện thân của Niềm hy vọng

Bằng việc sùng kính Đức Mẹ, chúng ta chạm đến trước sự viên mãn của ơn cứu độ của chúng ta. Mẹ Maria truyền trao hy vọng vì chính nơi con người Mẹ, Mẹ đã được cứu chuộc trước để đón nhận Thánh giá cứu độ và sự Phục sinh của Con Mẹ. Sự tái tạo của nhân loại được thực hiện sớm nơi Mẹ. Do đó, chính nơi bản thân Mẹ, Mẹ cho chúng ta một “cái nhìn trước” về nhân loại được cứu chuộc. Kế hoạch thánh hóa Mẹ Maria “sớm” đến nỗi nó đi trước cả lịch sử. Trong tông sắc định tín tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, Chân phước Piô IX dạy rằng “Ngay từ khởi đầu, và trước khi thời gian bắt đầu, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn và chuẩn bị cho Con một của Người một Người Mẹ, trong đó Con Thiên Chúa sẽ nhập thể và từ đó, trong sự viên mãn hồng phúc của thời gian, Người sẽ được sinh ra trong thế gian này.”⁹

Mẹ Maria được thụ thai vô nhiễm bởi một ân sủng “đi trước”: một “ân sủng đến trước.”¹⁰ Phụng vụ đặt những lời của sách Châm Ngôn 8,22–26 trên môi miệng Mẹ Maria: “Đức Chúa đã dựng nên tôi như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người thuở xưa… trước khi có mặt đất. Khi chưa có các vực thẳm, tôi đã được sinh ra, khi chưa có các nguồn nước chứa chan. Trước khi núi non được định hình, trước các ngọn đồi, tôi đã được sinh ra; trước khi Người làm ra đất với các cánh đồng, hay hạt bụi đầu tiên của thế gian.”

Đức Trinh Nữ là niềm hy vọng sống động cho toàn thể Dân Chúa vì “nơi Đức Trinh Nữ cực thánh, Giáo hội đã đạt đến sự hoàn hảo không tì vết, không nếp nhăn.”¹¹ Do đó, trong những mâu thuẫn và đau khổ của cuộc đời chúng ta, và đặc biệt trong một chân trời bị thu hẹp và che khuất bởi đám mây của chủ nghĩa thế tục, tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội là một ngọn hải đăng của hy vọng và niềm vui. Tại Thánh lễ dành cho bệnh nhân trong chuyến viếng thăm Lộ Đức năm 2008, Đức Bênêđictô XVI đã chỉ ra: “Tại Lộ Đức đây, trong cuộc hiện ra vào thứ Tư ngày 3 tháng 3 năm 1858, Bernadette đã chiêm ngắm nụ cười của Mẹ Maria một cách rất đặc biệt. Đó là câu trả lời đầu tiên mà Bà Đẹp đã ban cho vị thị nhân trẻ tuổi muốn biết bà là ai. Trước khi tự giới thiệu mình, vài ngày sau, là ‘Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội,’ Mẹ Maria trước hết đã dạy Bernadette biết đến nụ cười của Mẹ, đây là lối vào thích hợp nhất để đi vào sự mặc khải về mầu nhiệm của Mẹ.”¹² Kinh nghiệm đầu tiên của một đứa trẻ sơ sinh là nụ cười của mẹ mình. Nơi Người Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta thấy nụ cười của sự tái sinh của chúng ta với tư cách là con cái Thiên Chúa.

Trong sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của mình, Mẹ Maria báo trước và khai mở vẻ đẹp của nhân loại được cứu chuộc. Cuối cùng, tất cả mọi người đều hy vọng vào Vẻ Đẹp với chữ “V” viết hoa. Một cái nhìn thế tục không chừa chỗ cho vẻ đẹp bền vững. Trong một “văn hóa loại bỏ” khép kín,¹³ mọi thứ đều qua đi, không có gì tồn tại. Ngay cả khi một cái gì đó hấp dẫn hoặc dễ chịu trong một thời gian, nó không có giá trị lâu dài. Có một mối tương quan với Mẹ Maria là được hiệp thông với con người đẹp nhất xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa, và con người này là mẹ của chúng ta. Chính con người Mẹ, cuộc trò chuyện với Mẹ, cũng dẫn chúng ta đến hy vọng và hướng tới “vẻ đẹp tốt hơn của Thiên Chúa”¹⁴ mà chúng ta khao khát.

“Đức Mẹ Mau Mắn”

Có lẽ chúng ta nhớ lại cách các bà mẹ của chúng ta thường thức dậy rất sớm, sớm hơn bất kỳ ai khác, để giúp đỡ từng thành viên trong gia đình. Khi còn nhỏ, tôi đã lờ mờ nhận ra điều này. Khi lớn lên, tôi càng ý thức hơn về việc mẹ tôi làm việc quanh nhà rất lâu trước khi chúng tôi (chúng tôi là một gia đình đông con) thức giấc. Mẹ Maria cũng đi trước chúng ta trong hành động của Mẹ, được thúc đẩy bởi tình yêu từ mẫu của Mẹ.

Ngay sau khi thụ thai Đấng Cứu Độ trong lòng, Mẹ Maria đã “vội vã” (Lc 1,39) lên đường đến miền đồi núi Giuđa để chia sẻ Tin Mừng, là chính Chúa Kitô, với người chị họ lớn tuổi của mình là Êlisabét. Mẹ không do dự. Niềm vui của Chúa Kitô phải được truyền đạt không chậm trễ, và thật vậy, bà Êlisabét và đứa con trong lòng bà đã vui mừng (cc. 41–44). Kinh Magnificat của Mẹ Maria tại cuộc Thăm viếng (cc. 46–55), trong khi dựa trên những lời hứa và mong đợi của Cựu Ước về một Đấng Mêsia, cũng là một bài ca tiên tri hướng tới niềm hy vọng tối hậu của nhân loại. Đó là một tiếng kêu tiên tri, một tiếng reo chiến thắng sớm, một sự cử hành trước về sự Phục sinh của Chúa Giêsu và sự phục hồi mọi sự trong Người (x. Ep 1,10). Cuộc Thăm viếng là một chuyến viếng thăm của Đức Mẹ đến với bà Êlisabét và cũng đến với mỗi người chúng ta. Đó là lời loan báo Tin Mừng đầu tiên. Mẹ Maria thực sự là, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã gọi Mẹ, “Đức Trinh Nữ mau mắn, Đức Mẹ Mau Mắn. Mẹ sẵn sàng ngay lập tức đến giúp đỡ chúng ta khi chúng ta cầu nguyện với Mẹ; khi chúng ta cầu xin sự giúp đỡ của Mẹ, sự bảo trợ của Mẹ luôn ở bên chúng ta. Trong nhiều khoảnh khắc của cuộc sống khi chúng ta cần sự giúp đỡ, sự bảo trợ của Mẹ, chúng ta hãy nhớ rằng Mẹ không để chúng ta phải chờ đợi: Mẹ là Đức Mẹ Mau Mắn, Mẹ ngay lập tức đi phục vụ.”¹⁵

Một sự hiện diện chu đáo và quan tâm

Mẹ Maria thành Nazareth đến sớm và hành động nhanh chóng để thúc đẩy sứ mạng cứu độ của Chúa Kitô. Chúng ta thấy sự can thiệp của Mẹ tại Cana miền Galilê: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Chúa Kitô đã nói rõ: “Giờ của tôi chưa đến” (c. 4). Mẹ Maria không chờ đợi “giờ” đến mà nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (c. 5). Cana miền Galilê là phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu và nó có nhiều khía cạnh. Nó tạo nên một sự kiện vô cùng vui vẻ. Nó là một sự cử hành tình yêu lãng mạn. Nó là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ nạn với rượu ngon gợi lên sự đổ tràn quảng đại máu của Đấng Cứu Chuộc trên đồi Canvê. Nó mang lại lợi ích cho mỗi người con của Mẹ Maria – đôi tân hôn, các khách mời, người quản tiệc, các môn đệ – những người giờ đây bắt đầu có đức tin vào Chúa Kitô (c. 11). Nó mang lại lợi ích cho chính Chúa vì sứ mạng của Người đã được khởi động. Xảy ra “vào ngày thứ ba” (c. 1), nó báo trước niềm vui của sự Phục sinh và chiến thắng cuối cùng của tiệc cưới Con Chiên.¹⁶ Nhưng đó cũng là một phép lạ xảy ra sớm, trước thời hạn: “giờ” của Chúa chưa đến, nhưng “sự nài xin” của Mẹ Người đã mang niềm vui cứu độ đến sớm hơn. Một trong những bài thánh ca dâng kính Mẹ Maria trong Phụng vụ các Giờ kinh hát về cách Mẹ Maria không chỉ đáp lại lời cầu xin của chúng ta mà còn thường xuyên thấy trước và chăm sóc chúng.¹⁷

Xem Thêm:  Chân phước Mária Magdolna Bódi: Can đảm gìn giữ phẩm giá đến cùng

“Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Chúng ta thấy ở đây một nét đặc trưng của tình yêu từ mẫu của Mẹ Maria. Mẹ thấy nhu cầu của chúng ta trước cả chúng ta. Mẹ không chỉ đến đúng giờ. Mẹ đến sớm, và Mẹ hành động nhanh chóng vì tình yêu dành cho con cái mình. Với Mẹ Maria, chúng ta luôn có hy vọng vì chúng ta có thể trông cậy vào tình yêu quan phòng của Mẹ. Nhà thơ Gerard Manley Hopkins đặt tên cho một trong những bài thơ của mình là “Đức Trinh Nữ Maria được so sánh với không khí chúng ta thở.” Đây là Mẹ Maria: ban sự sống, kín đáo, sẵn sàng, sớm sủa, chu đáo, đi trước chúng ta. Đôi khi chúng ta thấy cách các bà mẹ trần thế của chúng ta có thể phát hiện ra một số điều khó chịu trong chúng ta trước khi chúng ta hoàn toàn ý thức về nó. Điều này càng đúng hơn đối với Đức Mẹ.

Niềm hy vọng sáng ngời trong bóng tối

Trong những khoảnh khắc đen tối nhất, Mẹ Maria vẫn giữ vững đức tin và do đó, niềm hy vọng Kitô giáo luôn sống động nơi Mẹ. Theo truyền thống trong Giáo hội, ngày thứ Bảy được dành riêng cho Đức Mẹ vì vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, ngày tối tăm và thinh lặng giữa Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh, trong khi Chúa Kitô ngủ giấc ngủ của sự chết trong mộ, một mình Mẹ giữ vững đức tin và hy vọng của Giáo hội: Chúa Kitô chắc chắn sẽ sống lại.¹⁸ Không có gì ngạc nhiên khi nhiều vị thánh cho rằng người đầu tiên mà Chúa Giêsu phục sinh hiện ra là mẹ của Người. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc lại rằng “một tác giả thế kỷ thứ năm, Sedulius, cho rằng trong sự huy hoàng của đời sống phục sinh, Chúa Kitô đã hiện ra trước hết với mẹ của Người. Thật vậy, Mẹ, người mà trong ngày Truyền Tin là con đường để Người bước vào thế gian, đã được mời gọi để loan báo tin mừng kỳ diệu về sự Phục sinh để trở thành người loan báo về sự quang lâm vinh hiển của Người. Do đó, được tắm trong vinh quang của Đấng Phục Sinh, Mẹ báo trước sự huy hoàng của Giáo hội.”¹⁹ Trong việc “chào đón Chúa Giêsu phục sinh,” Thánh Gioan Phaolô II nói, “Mẹ Maria cũng là một dấu chỉ và một sự báo trước của nhân loại, vốn hy vọng đạt được sự viên mãn của mình qua sự sống lại của kẻ chết.”²⁰

Một lần nữa, vào thời điểm quan trọng này của lịch sử cứu độ, Mẹ Maria đã đến sớm. Mẹ cho thấy rằng “hy vọng không làm chúng ta phải thất vọng” (Rm 5,5). Trong điều này, Mẹ truyền cảm hứng cho chúng ta giữ vững đức tin và “vui mừng trong niềm hy vọng” (x. Rm 12,12) chính trong những khoảnh khắc khi mọi thứ dường như đã mất, và hy vọng dường như vô ích. Người ta có thể tự hỏi Mẹ Maria phản ứng thế nào khi chúng ta liên tục nói với Mẹ trong suốt mùa Phục sinh hãy vui lên: Regina Coeli, laetare! Có lẽ Mẹ mỉm cười trả lời chúng ta: “Các con đang nói với ai vậy…?”

Niềm hy vọng Nước Trời

Mẹ Maria cũng “sớm” trong sự kiện Hồn Xác Lên Trời của Mẹ. Mẹ chia sẻ “sớm” sự sống lại của thân xác mà chúng ta đang chờ đợi (x. 1 Cr 15,20) và mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Qua việc Mẹ được đưa về trời, mẹ chúng ta nâng tâm hồn và trí óc chúng ta hướng về trời, quê hương cuối cùng của chúng ta. Đó là cách Phụng vụ thưa với Thiên Chúa Cha: “Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa đã được đưa về trời như là sự khởi đầu và hình ảnh của Giáo hội của Chúa sẽ đến hồi hoàn thiện và như một dấu chỉ của niềm hy vọng chắc chắn và sự an ủi cho dân lữ hành của Chúa.”²¹ Mẹ Maria vẫy gọi chúng ta hướng về trời.

Với Mẹ Maria, luôn có hy vọng vì với Mẹ Maria, chúng ta luôn gặp gỡ Chúa Kitô. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi nhiều người đã tìm lại được niềm vui của đức tin và hy vọng qua Mẹ Maria. Mẹ Maria đi trước chúng ta, Mẹ đến sớm, Mẹ thúc đẩy sứ mạng của Con Mẹ, và Mẹ mở lòng chúng ta ra với niềm hy vọng bất diệt trong tình yêu của Người. Lòng sùng kính Đức Mẹ cho chúng ta lòng can đảm. Mẹ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta “làm bất cứ điều gì [Chúa] bảo chúng ta” (x. Ga 2,5). Như Thánh Josemaría đã nhận xét, “nhiều cuộc hoán cải, nhiều quyết định hiến mình phục vụ Thiên Chúa đã được đi trước bởi một cuộc gặp gỡ với Mẹ Maria.”²² Thực tế này được chứng thực bởi lịch sử của Giáo hội và ơn gọi của nhiều cá nhân.

“Mẹ của Niềm Hy vọng”

Thiên chức làm mẹ là sự hiện diện của một niềm hy vọng sống động và bền vững. Sự thiếu hy vọng đặc trưng của chủ nghĩa thế tục đi đôi với sự mất giá nghiêm trọng của thiên chức làm mẹ. Những người mẹ yêu thương luôn nuôi dưỡng hy vọng cho con cái mình, ngay cả khi con cái của họ đã qua tuổi thơ ấu. Tôi nhớ một bà cụ rất già sắp qua đời. Bà chỉ có một điều hối tiếc: “Tôi ước gì mình có thể ở lại lâu hơn một chút để chăm sóc các con tôi.” Các con của bà có độ tuổi từ cuối sáu mươi đến giữa bảy mươi, và chính họ cũng đã là ông bà! Các bà mẹ không bao giờ ngừng hy vọng cho con cái mình. Mẹ Maria, Mẹ của Niềm Hy vọng, làm điều này một cách không mệt mỏi, luôn nâng cái nhìn của chúng ta vượt ra ngoài sự thiển cận của cái nhìn thế tục để đến với viễn cảnh rộng lớn và giải thoát của sự sống vĩnh cửu. “Con người trở nên nhỏ bé hơn, chứ không phải vĩ đại hơn, khi không còn chỗ cho một nền đạo đức, phù hợp với bản chất đích thực của mình, vượt ra ngoài chủ nghĩa thực dụng, khi không còn chỗ cho một cái nhìn hướng về Thiên Chúa.”²³ Mẹ Maria luôn nhắc nhở chúng ta về phẩm giá của chúng ta là những người con yêu dấu của Thiên Chúa (x. 1 Ga 3,1). Lòng sùng kính Đức Mẹ là một con đường chắc chắn dẫn đến niềm hy vọng vĩnh cửu ở trung tâm của Năm Thánh 2025: Chúa Kitô là Chúa.

Ghi chú: Các chú thích cuối trang trong bài viết gốc được liệt kê dưới đây dưới dạng danh sách tham khảo.

  1. Lời của Rm 5,5: Spes non confundit (“Hy vọng không làm thất vọng”) là tựa đề Tông sắc của Đức Thánh Cha Phanxicô công bố Năm Thánh Thường lệ 2025, ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  2. Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông sắc Công bố Năm Thánh Thường lệ 2025, Spes non confundit, ngày 9 tháng 5 năm 2024, số 24.
  3. X. Thư của Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích gửi các Chủ tịch Hội đồng Giám mục về các lời cầu “Mater misericordiæ,” “Mater spei,” và “Solacium migrantium” được thêm vào Kinh Cầu Đức Bà.
  4. X. Rm 8,24, và Bênêđictô XVI, Thông điệp về Niềm Hy vọng Kitô giáo Spe Salvi, ngày 30 tháng 11 năm 2007.
  5. Ml 4,2: “Nhưng đối với các ngươi, những kẻ kính sợ danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, với sự chữa lành trong đôi cánh của nó.”
  6. Thánh John Henry Newman, Suy niệm và Kinh nguyện, Longmans, Green and Co., London, 1907, tr. 76, Phần I: “Suy niệm về Kinh Cầu Đức Bà, cho tháng Năm”: Về Lễ Mông Triệu (8), Stella Matutina.
  7. Ví dụ, các Thánh Justinô, Irênê, Giêrônimô, và Éphrem.
  8. X. 2 Cr 5,17; Gl 6,15.
  9. Chân phước Piô IX, Tông sắc Ineffabilis Deus, ngày 8 tháng 12 năm 1854.
  10. Sách Lễ Rôma, Thánh lễ Trọng thể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Lời nguyện trên Lễ vật.
  11. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium, ngày 21 tháng 11 năm 1964, số 65.
  12. Bênêđictô XVI, Bài giảng tại Thánh lễ dành cho bệnh nhân, Lễ nhớ Đức Mẹ Sầu Bi, Lộ Đức, ngày 15 tháng 9 năm 2008.
  13. Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, ngày 24 tháng 5 năm 2015, số 22; Kinh Truyền Tin, ngày 29 tháng 1 năm 2023.
  14. Gerard Manley Hopkins, trong bài thơ “To what serves Mortal Beauty?”
  15. Đức Thánh Cha Phanxicô, cuối buổi lần chuỗi Mân Côi, Hang đá Lộ Đức, Vườn Vatican, ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  16. X. Khải huyền 19,1–9.
  17. “Opem tua benignitas / non solum fert poscentibus, / sed et libenter saepius / precantum vota praevenit” trong Liturgia Horarum, Libreria Editrice Vaticana, 1987: Lễ nhớ Đức Maria ngày thứ Bảy, Kinh Sáng, Thánh thi (lựa chọn thứ hai).
  18. “Chỉ nơi Mẹ Maria, đức tin của Giáo hội mới đứng vững trong ba ngày Chúa Giêsu nằm trong mộ. Và mặc dù mọi người khác đều nao núng, Mẹ, người đã thụ thai Chúa Kitô trong đức tin, đã giữ vững đức tin mà Mẹ đã một lần cho tất cả nhận được từ Thiên Chúa và không bao giờ đánh mất. Do đó, Mẹ có thể chờ đợi với niềm hy vọng chắc chắn vào vinh quang của Chúa Phục Sinh.” Thánh Bênađô, Bài giảng thứ bảy về Lễ Mông Triệu.
  19. Thánh Gioan Phaolô II, Buổi tiếp kiến chung, “Mẹ Maria là chứng nhân của toàn bộ mầu nhiệm Vượt qua,” ngày 21 tháng 5 năm 1997. Ngài tham chiếu Sedulius, Paschale carmen, 5, 357–364, CSEL 10, 140ff.
  20. Thánh Gioan Phaolô II, Buổi tiếp kiến chung.
  21. Sách Lễ Rôma, Lời Tiền tụng Lễ Trọng thể Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời.
  22. Thánh Josemaría Escriva, Con đường của Chúa Kitô, số 149.
  23. Bênêđictô XVI, “Tình yêu là nguồn gốc của công cuộc truyền giáo,” trong Kitô giáo là gì? Những bài viết cuối cùng (San Francisco: Ignatius Press, 2023), tr. 22.

 

BTT Cát Nội chuyển ngữ từ hprweb.com